Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Cần có cái nhìn khách thay đổi quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

QĐND - Ngay sau khi giành được độc lập (1945), chủ toạ Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách đạo của ViệtNam là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo kết đoàn”. Tư tưởng ấy của chủ toạ Hồ Chí Minh được Đảng và quốc gia Việt Nam diễn đạt trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Quan tâm đến công tác đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng nói chung và đời sống của đồng bào các đạo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý từng lớp và điều hành tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp trước hết của Việt Nam năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa từng lớp chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, đạo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều đồng đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, đạo được luật pháp bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân căn bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm luật pháp ngày một ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI duyệt y ngày 18-6-2004 và chủ toạ nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là coi trọng tự do tín ngưỡng, đạo. Thực tiễn, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, đạo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, luật pháp hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được mô tả sinh động trong cuộc sống hằng ngày.

Các số liệu được đưa ra tại cuộc tọa đàm về tự do đạo được Đại sứ quán ViệtNam tại Mỹ tổ chức ngày 20-6-2013 ở Oa-sinh-tơn cho thấy, nhận thức và hoạt động tôn giáo tại Việt Nam đã có sự đổi thay rất lớn trong vòng 20 năm qua. Đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như bây chừ và đang phát triển theo chiều hướng hăng hái, tạo ra sự ổn định trong tầng lớp. Số người theo tôn giáo đã tăng từ 22 triệu lên 25 triệu người trong vòng 2 năm, trong khi số đạo được xác nhận đã tăng từ 6 lên 13 trong vòng 8 năm. Rất nhiều tôn giáo có đại diện trong trận mạc giang san và Quốc hội, góp phần củng cố chính sách đại kết đoàn dân tộc.

Cũng tại cuộc tọa đàm này, Tiến sĩ Cơ-rít Xây-plơ, chủ toạ Viện liên quan toàn cầu (IGE), một tổ chức phi chính phủ Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam đã đánh giá cao những tiến triển về tự do tôn giáo tại Việt Nam: “Tại khu vực Tây Bắc, đã có hơn 300 nhà thờ được đăng ký và con số này tại Tây Nguyên là hơn 2000. Ngay trong tuần này, một chủng viện Tin lành đã lần trước tiên được đăng ký tại ViệtNam. Lần đầu tiên kể từ năm 1975, Chính phủ Việt Nam sẽ tài trợ 150.000USD cho công tác nghiên cứu về vấn đề đạo và pháp quyền. Chúng tôi đồng hành với những gì Chính phủ và quần chúng. # Việt Nam đang thực hiện. Nếu không có những quyết định tích cực của Việt Nam thì chúng tôi sẽ không thể hoạt động tại đây”.

Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ (năm 2011), Việt Nam có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, đạo gia tô 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hòa hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000. Nếu kể các hành vi thờ tự tiên sư, thành hoàng, vua Hùng… thì hồ hết người Việt có linh tính tôn giáo. Song điều quan yếu là, mọi sinh hoạt tôn giáo ở ViệtNam đều diễn ra thường nhật, không gặp bất cứ sự ngăn trở nào. Những ngày lễ của các tôn giáo được tổ chức trang trọng theo đúng nghi tiết đạo, cuốn sự dự đông đảo của các giáo đồ với ý thức háo hức, yên tâm và tin cậy vào chính sách tôn giáo và pháp luật của Nhà nước Việt Nam, đồng thời bảo đảm thứ tự an toàn xã hội.

Quyền tự do tín ngưỡng, đạo là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới năm 1948 và được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của liên hiệp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nói về quyền tự do tôn giáo đã xác định: “Quyền tự do đãi đằng tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp và khi sự giới hạn đó là cấp thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức từng lớp, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do căn bản của người khác”. Như vậy, theo quan điểm của liên hiệp quốc và cộng đồng quốc tế, mặc dù là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, đạo không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Sự giới hạn đó là cấp thiết nếu việc thực hiện quyền này xâm hại tới an ninh nhà nước, trật tự tầng lớp, sức khỏe cộng đồng hoặc quyền và tự do cơ bản của người khác. Nói cách khác, ở ắt các nước, các loại hình tổ chức đạo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp. Mọi hành vi hoạt động đạo gây hại đến an ninh nhà nước, thứ tự, an toàn xã hội, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác… đều bị cấm và nghiêm trị theo luật pháp. Thành ra, những kẻ lợi dụng đạo để trục lợi cá nhân chủ nghĩa, thực hành những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định thứ tự xã hội thì phải bị xử lý thỏa đáng.

Chúng ta cũng chính trực nhấn rằng, trong những năm qua, hoạt động đạo và công tác quản lý quốc gia về đạo vẫn còn một số tội ở một vài địa phương, trong một số vụ việc cụ thể. Thế nhưng, về căn bản, lãnh đạo các chức sắc đạo tại ViệtNam và đông đảo những người có lương tri trên thế giới đến thăm Việt Nam đều dấn những thành tựu to lớn của nước ta trên lĩnh vực tôn giáo.

Có thể kể đến đánh giá của Thượng nghị sĩ Mỹ Gim-oép-bơ (Jim Webb) sau chuyến thăm Việt Nam năm 2009 rằng: Cho dù vẫn còn những ý kiến cá nhân chủ nghĩa về một đôi vụ việc cụ thể, song chẳng thể phủ nhận những tiến bộ về tự do đạo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ba-lê-xtre-rô trong chuyến thăm ViệtNam (tháng 2-2012) đã ghi nhận: Chính phủ Việt Nam đang núm thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và đảm bảo tự do tôn giáo của người dân. Ngay cả mỏng tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ (công bố ngày 20-5-2013), phần đánh giá về Việt Nam cũng phải ghi nhận: “Đã có những dấu hiệu cải thiện, như cấp phép đăng ký cho các giáo đoàn mới, cho phép mở mang các hoạt động từ thiện và cho phép tổ chức các buổi lễ đạo quy mô lớn với trên 100.000 người tham dự”...

Nên chi, có thể nói việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã duyệt y cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam” (HR 1897) ngày 28-6-2013, do hai nghị viên Đảng Cộng hòa Ét Roi-xơ (Ed Royce) và Cơ-rít Xmit (Chris Smith) thủ xướng là một việc làm đáng tiếc, tạo ra sự ảnh hưởng không tốt cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ.

Đại tá, TS VŨ HỒNG KHANH


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét