Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Trường công chất lượng cao và vấn đề đồng đẳng hay hay xã hội.

Mặc dù mục đích công và lợi

Trường công chất lượng cao và vấn đề bình đẳng xã hội

Kết quả là giáo dục không ngừng mở mang trong lúc sự tín nhiệm giá trị của giáo dục cũng không ngừng lạm phát. Từ góc nhìn xã hội, giáo dục là công cụ tạo ra bình đẳng bằng cách mang lại thời cơ công bằng cho mọi người. Học phí cao thật ra chỉ đủ để bù đắp phí tổn hoạt động, còn cơ sở hạ tầng thì vẫn là từ nguồn lực công. Trường tư ra đời đã đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa nguồn cung dịch vụ giáo dục, để người học có nhiều dịp lựa chọn hơn giữa mong muốn và khả năng chi trả của mình.

Nhưng việc dùng nguồn lực Nhà nước để đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng cho những trường công chất lượng cao để những trường này có thể thu học phí gấp ba lần mức lương tối thiểu của tầng lớp là một việc không thể biện minh dưới góc độ công bằng từng lớp, vì chỉ người giàu đủ tiền đóng học phí mới được hưởng những tiện ích dịch vụ này.

Chính vì lẽ đó mà ở nhiều nước, thụ hưởng giáo dục được xem là một quyền cơ bản của công dân. Cấp bỏ học cao nhất là THCS chiếm 47,17%. Sự thống trị thầm lặng của quan điểm thứ hai khiến giáo dục được coi là một dịch vụ, và trong vòng hai thập kỷ qua đã hình thành một thị trường giáo dục ở Việt Nam.

Trường tư, trường quốc tế với nguồn vốn đầu tư của tư nhân, cơ sở vật chất to đẹp, thu học phí cao, dành cho con em nhà giàu.

HCM - Ảnh: Như Hùng Liệu những tiêu chí đi kèm nó có thật sự miêu tả cho “chất lượng cao” của giáo dục, nếu ta định nghĩa chất lượng giáo dục là những phẩm chất, năng lực mà người học thụ đắc qua quá trình học tập, và do đó phải được đo chủ yếu ở kết quả đầu ra? Nhà trường từ thuở mới hình thành đã chứa đựng mâu thuẫn giữa hai tầm nhìn khác nhau về mục đích của giáo dục.

HCM  ). Người Việt trong nước, cũng như kiều bào ở nước ngoài, hi sinh nhiều thứ để con cái được đến trường và đeo đuổi giáo dục bậc cao. Ấn Độ chả hạn, từ năm 1960 có quy định trong hiến pháp về giáo dục miễn phí đến năm 14 tuổi, nhưng thực tế chỉ 74% dân số biết đọc biết viết.

Đó là một thực tại bất bình đẳng nhưng chưa thể xóa bỏ ngay, vì nguồn lực quốc gia không đủ để bảo đảm điều kiện giáo dục tốt cho tất tật mọi trẻ mỏ. Nhờ nguồn thu cao hơn, họ có thể tạo ra cái điều kiện dạy và học tốt hơn, tuy điều đó cũng không bảo đảm chất lượng giáo dục tốt hơn.

Duyệt y việc thành lập những trường công chất lượng cao (với học phí xứng) và lớp chất lượng cao (hẳn nhiên cũng với học phí cao) trong trường công, chính sách này đang khoét sâu thêm khoảng cách bất đồng đẳng ấy trong giáo dục phổ quát và kèm theo đó là bất công, vô lý, bởi làm như vậy là lấy tiền tài ngân sách để cho người giàu, thay vì phải hỗ trợ người nghèo để tăng cường thời cơ cho họ.

Tình trạng nhập nhằng công - tư như vậy diễn ra không chỉ trong lĩnh vực giáo dục, nhưng trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ quát, thì nó tác động trực tiếp đến công bằng tầng lớp - một trong những giá trị nền móng tạo ra tính chính danh cho quốc gia, cũng như tác động đến sự ổn định và phát triển của tầng lớp ngày mai.

Phương án “chất lượng cao” dường như là một giải pháp dung hòa để giải quyết mâu thuẫn giữa nguồn lực tài chính có hạn của Nhà nước cùng những trông mong ngày một cao của phụ huynh, và sự mở mang tầng lớp trung lưu trong từng lớp.

Nhưng không thể tăng cường cơ hội cho bít tất mọi người trong lúc vẫn duy trì ưu thế của một số người, không thể xúc tiến sự bình đẳng trong lúc vẫn bảo vệ cho đặc quyền. Cô Nguyễn Thị Ngọc Yến (bìa phải) chỉ dẫn ôn thi cho học trò lớp 12 Trường THPT Lê Quí Đôn, Q. Trường công với nguồn lực hạn hẹp của ngân sách công, điều kiện dạy và học hạn chế, học phí thấp, dành cho con em nhà nghèo. Bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục là một nguyên tố cơ bản tăng cường sự cố kết xã hội (Andy Green, John Preston, Ricardo Sabates, 2003).

Đằng sau sự kiên tâm và hi sinh đó là kỳ vọng xem giáo dục như một dụng cụ thần kỳ làm thay đổi số. Trường công, ngay cả khi thu học phí cao vẫn phải dùng nguồn lực công làm nền tảng.

Mâu thuẫn đó vẫn đang tồn tại: một mặt, giáo dục được xem là phương tiện thực hành sứ mệnh công (duy trì sự trung thành với những niềm tin rường cột của từng lớp, những giá trị cốt lõi giữ cho từng lớp ổn định và phát triển), mặt khác giáo dục là phương tiện thực dụng để đạt những ích lợi tư (đạt được những kỹ năng và kiến thức giúp người có học kiếm sống tốt hơn những người không được học hành).

Họ chỉ đơn giản là theo đuổi ích của chính họ qua công cụ giáo dục. Nói là bất bình đẳng vì thực tế đó tạo ra những điều kiện và nhịp phát triển khác nhau cho con trẻ có cỗi nguồn gia đình và nền tảng kinh tế khác nhau, khiến cho bất bình đẳng từng lớp ngày càng thêm sâu sắc.

Trong bối cảnh đó càng cần những chính sách chú trọng đến thành phần này thay vì những thành phần đang có ưu thế. Nếu tất cả mọi người đều có bằng đại học thì bằng đại học không còn là một ưu thế nữa. Hiến pháp Việt Nam 1992, điều 59 có quy định “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Tỉ lệ bỏ học cốt tử ở nông thôn: 87%.

Thực chất những lớp học được gọi là “chất lượng cao” này không khác gì những “kế hoạch B”, nghĩa là tận dụng cơ sở vật chất hạ tầng của quốc gia để tạo nguồn thu, tăng thu nhập cho những người đang làm việc trong hệ thống quốc gia, và người ta xem đó là giải pháp tình thế để bù đắp những thiếu hụt của nguồn lực công.

Dù rằng vậy có đến 44% người thôi học cho biết họ muốn đi học tiếp. PHẠM THỊ LY (  Viện Đào tạo quốc tế, ĐHQG TP. Đó không chỉ là một lý tưởng mà còn là phương tiện then chốt đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Có câu nói “thêm một trường là bớt đi một nhà tù” là nên. Trái lại, những người tiêu dùng giáo dục lại tiếp cận giáo dục như một hàng hóa tư, một tài sản cá nhân chủ nghĩa của những người giành được nó.

Tại sao? vị là giải pháp tình thế, nó có thể tháo gỡ những khó khăn trước mắt về nguồn lực tài chính cho một số trường. Đã là dịch vụ thì có mua bán, và có quy luật “tiền nào của ấy”. Ai có con đang học phổ biến ở các thị thành lớn đều hiểu tình trạng “phong bì” cho thầy cô giáo hiện giờ cũng trầm trọng không kém bất cứ lĩnh vực dịch vụ công nào khác.

Chính vì lẽ đó, hệ thống giáo dục công lập phải nhằm mục tiêu làm giảm nhẹ chứ không phải làm tăng thêm bất đồng đẳng xã hội. Khuynh hướng này diễn tiến tương tự ở Việt Nam, từ chỗ nhấn mạnh mục tiêu chính trị đến đích kinh tế và cơ hội của từng cá nhân, đặc biệt trong bối cảnh chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường.

Phê duyệt cơ hội công bằng, giáo dục kích thích thế vươn lên của mọi cá nhân, xúc tiến sự ưu tú, tuấn kiệt, sự sáng tạo, nhờ đó tạo ra tiến bộ và phát triển xã hội.

044 thanh thiếu niên 14-25 tuổi tại 63 tỉnh/thị thành năm 2009 cho thấy khoảng một nửa số người được hỏi hiện đã thôi học, 24% trong số đó đã thôi học khi chưa đến 15 tuổi.

Tỉ lệ bỏ học cũng đang ngày một tăng: khảo sát 10. Nguyên tắc căn bản rằng ngân sách công thì phải phục vụ ích lợi công và đích công là không thể phá vỡ. Những vấn nạn của giáo dục hiện nằm ở đó. Quan niệm của công chúng về giáo dục diễn tiến qua thời kì, từ chỗ nhấn mạnh mục tiêu tôn giáo đến chỗ nhấn mạnh vào chính trị, rồi sau đó là kinh tế và rút cuộc là gắn chặt với lợi ích của những người đi học (David Labaree 1974, 2011, David Tyack and Larry Cuban 1995).

Không thể tăng cường dịp cho vớ mọi người trong lúc vẫn duy trì ưu thế của một số người, không thể xúc tiến sự bình đẳng trong lúc vẫn bảo vệ cho đặc quyền. Ngân sách công chẳng thể góp phần vào việc làm giãn rộng khoảng cách ấy mà cần được dùng vào việc tạo thời cơ cho người nghèo, nhất là ở bậc học phổ biến, đảm bảo rằng bất kỳ em nhỏ nào, dù tình cảnh xuất thân ra sao cũng có thể tiếp cận giáo dục căn bản và thay đổi số phận cá nhân mình nhờ vào giáo dục.

Điều này củng cố sự ổn định và phát triển của tầng lớp, bởi khi người nghèo bị tước hết mọi nhịp thay đổi căn số phê chuẩn giáo dục thì những mâu thuẫn tầng lớp sẽ dồn nén lại ngày càng căng thẳng và dẫn đến giải pháp cực đoan. Học phí cao cho các lớp chất lượng cao cũng có thể chỉ là cách chính thức hóa những khoản chi ấy.

Những người có học hành, bằng cấp cao có được ưu thế chính là vì nhiều người khác không được học.

Vì thế, quốc gia cần đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục của số đông phê duyệt khâu xung yếu nhất là năng lực, trình độ và phẩm chất của người thầy, cũng như đầu tư cải thiện nội dung chương trình giáo dục.

Ta muốn nhà trường thực hành lý tưởng của mình về bình đẳng xã hội, đồng thời đem lại cho chúng ta khả năng đạt đến tham vọng của mình với nhân cách một cá nhân chủ nghĩa.

Họ coi những ráng canh tân giáo dục như một giải pháp nhằm giải quyết các vấn nạn xã hội cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia, do đó ích mà giáo dục mang lại sẽ được chia sẻ cho tất mọi người dù bản thân người ấy hay con cái họ có đến trường hay không.

3, TP. Ở các nước tư bản phát triển, lý do kinh tế cho việc đeo đuổi học hành càng ngày càng tăng mạnh và nay rõ ràng trở nên một đích căn bản của giáo dục. Vậy giáo dục có vai trò như thế nào trong bối cảnh ấy? Đã từ lâu người Việt được biết đến như một dân tộc tôn trọng sự học. Bậc tiểu học là thắt, không phải trả học phí”, nhưng trong thực tiễn số người chưa bao giờ đến trường đang có thiên hướng tăng: 0,3% trong Điều tra nhà nước về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2003 tăng lên đến 2,4% năm 2009.

Các trường công lập được chi trả bằng tiền ngân sách, tức là tiền thuế của người dân, phải tạo cơ hội cho người nghèo. Chúng ta không tránh khỏi việc người giàu hơn thì được học trường tốt hơn, nhưng hãy để thị trường phục vụ họ.

Tư của giáo dục không mâu thuẫn nhau, nhưng việc nhấn mạnh yếu tố nà đẵn sẽ dẫn đến cách định hình hệ thống giáo dục và cách sử dụng ngân sách công cho giáo dục: Các nhà cách tân theo ý kiến thứ nhất nay vẫn có thiên hướng đối với giáo dục như là hàng hóa công.

Nhưng từ chính sách đến thực tại vẫn còn khoảng cách lớn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét