Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Hỗ trợ thực hiện bảo hiểm nông nghiệp - kinh nghiệm từ Hàn Quốc

Là một trong những loại hình BH rủi ro cấp độ quốc gia, bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) được Chính phủ các nước trên thế giới luôn quan hoài và có sự phòng ngừa tài chính ưu tiên để tài trợ các chương trình BH này cho hạp với tình hình thực tại. Trong đợt tìm hiểu, bàn thảo về BHNN tại Hàn Quốc năm 2012, sau các cuộc làm việc với Bộ Lương thực, Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Hàn Quốc, Công ty BH Samsung Fire&Marine, Công ty tái BH Hàn Quốc, Công ty môi giới UIB, một số nội dung và bài học kinh nghiệm chính về BHNN tại Hàn Quốc rất đáng để Việt Nam ngẫm. Tại Hàn Quốc, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 3,8% GDP, có 1,2 triệu hộ dân cày trong đó 785.000 hộ thuần nông. Các sản phẩm nông nghiệp chính bao gồm lúa, cây có củ, lúa mì, rau, cây ăn quả, đại gia súc, lợn, gà, sữa, trứng và cá. Quy mô hộ sản xuất nhỏ. Các rủi ro chính trong canh tác cây trồng gồm bão và mưa đá, bên cạnh đó là sương giá vụ xuân và vụ đông, mưa lớn; các rủi ro chính trong nuôi trồng thủy sản bao gồm bão, lốc, triều dâng, lũ lụt, tuyết rơi và tảo.

Trong giai đoạn từ 2002 đến 2011, tổng kinh phí chi khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra là 2.675 tỷ KRW (tương đương khoảng 2,675 tỷ USD) trong đó, ngân sách trung ương chi: 1.813 tỷ KRW; ngân sách địa phương chi: 418 tỷ KRW; vay: 226 tỷ KRW; trợ giúp nhân đạo: 8 tỷ KRW; các nạn nhân tự chịu: 210 tỷ KRW. Các rủi ro được BH bao gồm bão và mưa đá. Mục đích thực hành BHNN của Chính phủ Hàn Quốc là nhằm giúp dân cày tránh khỏi phá sản và dễ dàng khôi phục tái sinh sản; giúp ổn định ăn tiêu của Chính phủ.

Cách thức mở rộng chương trình của Hàn Quốc thường được thực hành sau thí nghiệm trên cả nước tại một số ít loại đối tượng BH, sau đó các đối tượng này được đưa vào chương trình BH chính và trong khi tiếp kiến mở mang thí điểm với các đối tượng khác. Sự tương trợ của Chính phủ cho thấy, đối với cây trồng, Chính phủ trung ương tương trợ 50% phí kỹ thuật; chi 100% uổng quản lý, chuyển kinh phí trực tiếp cho công ty BH và 4,4% tính trên mức giữ lại, coi như là khoản hỗ trợ tái BH; chính quyền địa phương hỗ trợ 25% phí kỹ thuật; cộng tác xã - nơi người dân cày tham dự BH là thành viên, nếu có khả năng tài chính, cũng tương trợ thêm về phí. Ngoại giả, Chính phủ chịu bổn phận chi bồi thường cho những khoản vượt quá 180% phí BH.

Để có nguồn kinh phí chi cho các khoản bồi hoàn này, Chính phủ thu lại 5,5% tổng phí. Trong chương trình thủy sản, Chính phủ chịu bổn phận chi tổn thất trên 140% tổng phí (BH lũ lụt sẽ tương trợ 50% phí kỹ thuật và 90% tổn phí quản lý; BH thủy sản tương trợ 50% phí kỹ thuật và 70% hoài quản lý).

Công ty BH Samsung cho biết, quá trình thực hành BHNN có hai phương án dẫn đến thất bại: quy định phí BH quá cao thì nông dân không dự, còn nếu quá thấp thì các công ty BH không tham gia. Phương án độc nhất vô nhị thành công là phải có tương trợ phí của Chính phủ bảo đảm phí ở mức chịu được đối với dân cày và đủ quyến rũ đối với các công ty tham gia. Kinh nghiệm của Hàn Quốc năm 2002 cho thấy, vì có tổn thất lớn do cơn bão Rusa gây ra nên năm 2003 phí BH tăng không đủ đề nghị, và các công ty BH rút khỏi chương trình. Do đó, Bộ Nông nghiệp Hàn Quốc phải giữ lại 100% và chịu tổn thất lớn năm đó, và cuối cùng Chính phủ lại phải đứng ra đền bù cho nhà băng Nông nghiệp Hàn Quốc (Nonghuyp). Năm 2004, Chính phủ phải lập tổ công tác khuyến khích các công ty BH tham gia vì chỉ có như vậy chương trình mới phát triển bền vững. Kết quả các công ty BH tư nhân đã dự trở lại cùng với Chính phủ và Nonghuyp, theo hình thức hiệp tác công-tư (PPP).

Về tổ chức thực hành, tại Hàn Quốc, Viện phát triển BH Hàn Quốc thực hành định phí, còn Nông hiệp (Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp) thực hành chương trình BH cây trồng và Ngư hiệp (Liên hiệp cộng tác xã ngư nghiệp) thực hiện chương trình BH thủy sản. Các công ty BH phi nhân thọ trong nước dự nhận tái BH từ Nông hiệp/Ngư hiệp; Công ty Tái BH Hàn quốc thu xếp tái BH ra nước ngoài. Kết quả cho thấy, tỷ lệ bồi hoàn chương trình chính là 94% và chương trình thí nghiệm là 90,7%, từ đó làm cho các công ty tham gia bị lỗ (riêng năm 2012 tỉ lệ tổn thất ước tính 300%). Thành ra, dự trù sang năm 2013, Chính phủ phải điều chỉnh tăng phí và nâng tỷ lệ chi bồi hoàn của Chính phủ lên đáng kể thì mới cuộn được sự tham dự của các công ty BH.

Trong chương trình BH thủy sản, cũng giống chương trình BH cây trồng, Chính phủ chịu bổn phận chi tổn thất trên mức 140%. Phần dưới 140%, Suhuyp giữ lại 20% và nhượng tái BH cho Korean Re 80%.

Từ thực tiễn trên, bài học rút ra từ chương trình BHNN của Hàn Quốc cho thấy, sự hỗ trợ về tài chính của Chính phủ là điều kiện cấp thiết nhất để duy trì chương trình phát triển bền vững. Thực tại, Mỹ và châu Âu cũng vận dụng nhiều hình thức hỗ trợ nông nghiệp, nhưng phải đảm bảo hạp với quy định của WTO. Sự tương trợ về chính sách của Chính phủ, tuy khó nhận thấy hơn tương trợ bằng tiền, nhưng vô cùng quan trọng. Sự điều chỉnh của Chính phủ Hàn Quốc về BHNN khá linh hoạt, đổi thay phí hàng năm, nhưng luôn chú ý đến ích của cả nông dân và các công ty BH để bảo đảm chương trình phát triển bền vững.

Ngoại giả, với cách thức mở rộng chương trình bằng cách thí điểm một loại cây trồng 2-3 năm, sau đó đưa vào chương trình chính, có thể thấy đây là cách thức thực hành thử nghiệm và triển khai BHNN rất đáng nghiên cứu (tại Việt Nam, sau lúa có thể tính đến cây lương thực hoặc cây công nghiệp khác). Bên cạnh đó, cách thức tương trợ kinh phí của Hàn Quốc (100% phí tổn quản lý) có lợi là giúp giảm phí (ví dụ tại Việt Nam chuyển thẳng 35% phí tổn cho công ty BH thì phí BH sẽ giảm đáng kể), đồng thời đảm bảo các công ty vẫn có đủ kinh phí hoạt động, bởi nếu phân ra nhiều món (trung ương, địa phương, phí quản lý, phí tổn tái BH) sẽ gây phức tạp trong quản lý.

SÔNG TRÀ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét